HƯỚNG DẪN XỬ LÝ CẤP CỨU BỎNG NẶNG TẠI KHOA CẤP CỨU

Bỏng nặng là một trong những tình trạng nặng nhất gặp ở khoa cấp cứu. Các tổn thương bỏng rất đau, và thu hút mọi mối quan tâm vào vết thương bỏng.

Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân bỏng cần phải được tiếp cận một cách hệ thống bằng việc tập trung cấp cứu ban đầu theo các bước ABC (Airway, Breathing, Circulation). Bên cạnh đó, một số bệnh nhân bỏng có tổn thương chấn thương kết hợp hoặc các tình trạng bệnh phối hợp cần phải được phát hiện và quan tâm.

Cấp cứu bỏng nặng

1. KIỂM SOÁT ĐƯỜNG HÔ HẤP

Kiểm soát đường hô hấp trên ở bệnh nhân bỏng là một thách thức lớn, nhất là khi hít phải hơi nước nóng và khí độc. Phù nề đường hô hấp tiến triển nhanh có thể xuất hiện trong vòng vài phút.

Nếu nghi ngờ có chèn ép đường hô hấp trên thì cần phải:

  • Tiến hành nội soi thanh quản để chẩn đoán (nếu có điều kiện).
  • Đặt ống nội khí quản (nếu có điều kiện thì đặt ống nội khí quản dưới hướng dẫn của nội soi thanh quản hoặc nội soi khí quản ống mềm, các kỹ thuật này rất hữu dụng)
  • Nếu không đặt được nội khí quản thì cần tiến hành mở sụn nhẫn giáp hoặc chọc kim to qua sụn nhẫn giáp.

Sau khi đặt nội khí quản, phải cố định chắc ống.

Với bỏng vùng cổ kiểu chu vi, vẩy bỏng cứng có thể gây chèn ép đường thở (cũng như các mạch máu lớn ở cổ) thì phải phẫu thuật cắt bỏ vẩy bỏng ở cả hai bên cổ để giải phóng chèn ép.

2. ĐÁNH GIÁ CHUNG CHO BỎNG TRUNG BÌNH TỚI NẶNG

  • Tất cả bệnh nhân bỏng từ trung bình tới nặng và những bệnh nhân bỏng mà nghi ngờ có tổn thương do hít cần được thở oxy làm ẩm để duy trì độ bão hòa oxy (SpO2) lớn hơn 92%.
  • Với bỏng nặng, cần phải đặt hai đường truyền lớn ở tĩnh mạch ngoại vi, đặt ở chi không có thổn thương bỏng. Nếu không thể đặt được đường truyền tĩnh mạch ngoại vi thì cần phải đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm.
  • Bệnh nhân bỏng nặng cần phải được đặt ống thông bàng quang để theo dõi lượng nước tiểu và đánh giá tình trạng tiêu cơ vân và myoglobin niệu.
  • Đặt ống thông dạ dầy để dự phòng chướng bụng gây hạn chế thông khí.
  • Bệnh nhân cần phải được theo dõi liên tục điện tim và độ bão hòa oxy máu cũng như đánh giá thường xuyên huyết áp (tốt nhất là theo dõi huyết áp động mạch liên tục).

3. PHÁT HIỆN CÁC TỔN THƯƠNG DO HÍT PHẢI

Tổn thương do hít phải khói chiếm 5 – 35% bệnh nhân bỏng nhập viện. Với những tiến bộ trong hồi sức dịch đã làm thay đổi tiên lượng các trường hợp sốc do bỏng, tổn thương do hít phải đã trở thành một trong hai nguyên nhân mắc bệnh và tử vong ở bệnh nhân bỏng. Sự xuất hiện của tổn thương do hít phải làm tăng tỷ lệ tử vong do bỏng lên 20%, và khi phối hợp với viêm phổi thì tỷ lệ tử vong là 60%.

Theo kinh điển, tổn thương do hít phải được chẩn đoán dựa vào các biểu hiện lâm sàng như:

  • Bỏng mặt, lông mũi cháy xém, đờm có than gio, và tiền sử tổn thương trong khoảng thời gian gần.
  • Tương tự, các biểu hiện như thở khò khè, có ran phổi, hạ oxy máu, và các bất thường trên phim XQ phổi có thể có hoặc không khi tới khoa cấp cứu, ngoại trừ trong trường hợp tổn thương quá nặng.

Chẩn đoán tổn thương do hít tại khoa cấp cứu tốt nhất là bằng nhìn thấy trực tiếp đường thở qua nội soi thanh quản (trước khi đặt ống nội khí quản) và nội soi phế quản (sau khi đặt ống nội khí quản). Biểu hiện tổn thương do hít phải bao gồm có hóng muội, than cháy, và viêm, phù nề hoặc hoại tử niêm mạc.

Ngộ độc carbon monoxide (CO) và cyanide

  • Thường xuất hiện khi nồng độ CO vượt quá 15% với biểu hiện gồm các thay đổi thần kinh và nhiễm toan chuyển hóa. Hít phải hydrogen cyanide (hydrogen cyanide là một sản phẩm của các chất tổng hợp bị cháy như polyurethane) có biểu hiện tương tự như ngộ độc CO.
  • Toan chuyển hóa kéo dài mặc dù đã hồi sức thể tích dịch đầy đủ thì cần nghĩ tới hít phải CO hoặc cyanide cho dù PaO2 vẫn bình thường.
  • Tuy nhiên, cũng cần phân biệt với các ngộ độc khác như rượu ethyl và các thuốc có thể gây ra các rối loạn thần kinh tương tự.
  • Ngộ độc CO cần phải sớm được cung cấp oxy 90 – 100% để thay thế chỗ CO tại hemoglobin. Oxy áp lực được ưu tiên cho các tổn thương thần kinh nặng có nồng độ CO máu
  • Điều trị ngộ độc cyanide bằng truyền natrinitrite (NaNO2) và sau đó là natrithiosulfat (Na2S2O3) để giúp làm sạch cyanide.
  • Bỏng hóa chất đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới do khí độc có thể rõ rệt sau 24 – 48 giờ.
  • Nín thở và co thắt thanh quản là phản xạ bảo vệ ở bệnh nhân còn tỉnh, tuy nhiên, những bệnh nhân hôn mê sẽ mất phản xạ bảo vệ này và dễ bị tổn thương đường hô hấp dưới hơn
  • Ban đầu co thắt phế quản và phù nề do các chất khí gây kích ứng làm độ đàn hồi phổi giảm và có sự không tương xứng giữa thông khí – tưới máu. Điều trị ban đầu bao gồm duy trì trạng thái mở của các đường dẫn khí nhỏ bằng thông khí nhân tạo với áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) cũng như loại bỏ chất tiết. Sức cản đường thở tăng > 18 – 24 giờ sau khi tổn thương là do phù nề và bít tắc các phế quản nhỏ hơn là do co thắt phế quản.

4. ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG DO HÍT

Việc quyết định điều trị tổn thương do hít bằng thông khí nhân tạo khi có chỉ định là rất quan trọng.

Cùng với việc đảm bảo đường hô hấp trên, các chỉ định để đặt ống nội khí quản và thông khí nhân tạo được liệt kê ở dưới.

Rửa phế nang có thể cần thiết để giúp loại bỏ chất tiết rắn và làm cải thiện chức năng làm sạch của phổi. Tuy nhiên, vấn đề này đã được đơn giản hóa bởi ống nội soi phế quản nhỏ và mềm hơn.

Chỉ định đặt ống nội khí quản và thông khí nhân tạo ở bệnh nhân bỏng

  • Tắc nghẽn đường hô hấp trên
  • Không thể kiểm soát được chất tiết (ứ đọng đờm dãi nhiều)
  • Giảm oxy máu mặc dù đã được cung cấp oxy 100%
  • Rối loạn ý thức (sững sờ hoặc hôn mê)
  • Mệt cơ (nhịp thở nhanh hoặc chậm)
  • Giảm thông khí (PaCO2 > 50 mmHg và pH < 7,2)

Có nhiều phương thức thông khí nhân tạo, mỗi phương thức có ưu điểm và nhược điểm riêng. Trong khoa cấp cứu hầu hết bệnh nhân đặt ống nội khí quản đều cần được an thần nhiều có hoặc không phối hợp với thuốc giãn cơ, và vì vậy, phương thức kiểm soát hỗ trợ (the assist control mode _ A/C), trong đó máy thở hoạt động một cách tự động theo tần số được cài đặt trước, là phù hợp nhất.

 Mục đích của thông khí nhân tạo bao gồm:

  • Đạt được độ bão hòa oxy chấp nhận được (> 92%)
  • Hạn chế được áp lực cao nguyên (Pplateau) đường thở < 35 cmH2O để làm giảm các biến chứng chấn thương áp lực. Để đạt được điều này, cho phép PaCO2 35 – 50 mmHg (tăng CO2 máu cho phép) miễn là vẫn giữ được pH > 7,25.

Áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP) có thể giúp hỗ trợ cải thiện oxy hóa máu.

Để làm giảm tổn thương phổi do oxy cao, nồng độ oxy nên đặt ở mức thấp nhất có thể (≤ 60%) mà vẫn duy trì oxy hóa máu phù hợp.

Thông khí rung tần số cao có thể được sử dụng để đạt được oxy hóa máu phù hợp trong khi làm giảm tối thiểu được áp lực đường thở.

Khuyến cáo các cài đặt máy thở ban đầu

  • Vt 6 – 8 ml/kg
  • Tần số thở (RR) 8 – 12 (ở người lớn) 12 – 45 (ở trẻ em)
  • Áp lực cao nguyên (Pplateau) < 35 cmH2O
  • Tỷ lệ I/E 1:1 tới 1:3
  • Tốc độ dòng (Flow rates) 40 – 100 l/phút
  • PEEP 8 cmH2O

Bệnh nhân có tổn thương do hít có thể xuất hiện co thắt phế quản, vì vậy thuốc giãn phế quản được sử dụng khi bệnh nhân thở khò khè. Các thuốc giãn phế quản có thể làm cải thiện chức năng lông mao màng nhầy. Hút đờm và vỗ rung lồng ngực đều đặn cũng sẽ giúp loại bỏ chất tiết.

5. TUẦN HOÀN VÀ HỒI SỨC DỊCH

Hồi sức dịch là một trong những yếu tố quan trong nhất trong điều trị bệnh nhân bỏng. Có rất nhiều phác đồ hồi sức dịch đã được mô tả, tuy nhiên công thức Parkland vẫn được sử dụng phổ biến nhất.

Tổn thương bỏng làm hoạt hóa hệ thống bổ thể và giải phóng một lượng lớn các yếu tố trung gian gây viêm như histamines, prostaglandins, và leukotrienes. Các yếu tố trung gian này làm tăng tính thấm thành mạch gây thoát dịch và protein nội mạch vào khoảng kẽ do đó làm thiếu hụt thể tích dịch và phù nề mô mềm.

Với bỏng nhỏ (diện tích bỏng < 20% ở người lớn, và < 10 – 15 % ở trẻ em) có thể điều trị tốt chỉ bằng bồi phụ dịch đường uống.

Với bỏng lớn hơn, hồi sức dịch tĩnh mạch rất cần thiết để khôi phục thể tích nội mạch và dự phòng sốc giảm thể tích. Không nên sử dụng dịch keo trong hồi sức dịch ban đầu trừ khi bỏng rất sâu.

Các công thức hồi sức dịch cho bệnh nhân bỏng:

Các công thức hồi sức dịch cho bệnh nhân bỏng

Công thức 24 giờ đầu 24 giờ tiếp theo
Parkland Ringerlactate 4 ml/kg/% diện tích bỏng, ½ thể tích bồi phụ (truyền tĩnh mạch) trong 8 giờ đầu tiên Dịch cao phân tử với số

lượng bằng 20 – 60% thể tích máu; dung dịch glucose đẳng trương nhằm duy trì lưu

lượng nước tiểu 0,5 – 1 ml/kg/giờ ở người lớn và 1

ml/kg/giờ ở trẻ em

Parkland sửa đổi Ringerlactate 4 ml/kg/% diện tích bỏng ở người lớn Dịch cao phân tử (albumin 5%) với thể tích 0,3 – 1 ml/kg/% diện tích bỏng/16

giờ

Evans Dịch đẳng trương (1 ml/kg/% diện tích bỏng), cộng với dịch cao phân tử (1 ml/kg/% diện tích bỏng), cộng với 2000 ml

dịch glucose đẳng trương

Dịch đẳng trương (0,5 ml/kg/%), dịch cao phân tử (0,5 ml/kg/%), và một thể tích dịch glucose đẳng trương

tương tự 24 giờ đầu tiên

Brooke Ringerlactate (1,5 ml/kg/%), cộng với dịch cao phân tử (1

ml/kg/%), cộng với 2000 m ldịch glucose đẳng trương

Ringerlactate (0,5 ml/kg/%), dịch cao phân tử (0,25

ml/kg/%), và một thể tích dịch glucose đẳng trương

tương tự 24 giờ đầu tiên

Brooke sửa đổi Ringerlactate 2ml/kg/% ở người lớn và 3% ml/kg/% ở trẻ em Dịch cao phân tử (0,3 – 0,5 ml/kg/%), dung dịch glucose đẳng trương để duy trì lưu

lượng nước tiểu

Monafo Dung dịch chứa đựng 250 mEq Na+, 150 mEq lactate, 100 mEq Cl, tổng thể tích điều chỉnh theo lưu lượng

nước tiểu

Dung dịch được chuẩn độ bằng 1/3 dung dịch muối đẳng trương, thể tích theo lưu lượng nước tiểu
Galventon Ringerlactate với thể tích 5000 ml/diện tích bỏng cộng với 2000 ml/diện tích da toàn bộ cơ thể, ½ thể tích trong 8

giờ đầu tiên

3750 ml/diện tích bỏng cộng với 1500 diện tích da toàn bộ cơ thể

 

Tất cả các công thức hồi sức dịch được sử dụng như những hướng dẫn chung và việc điều chỉnh nó nhằm duy trì sự tưới máu mô và cơ quan phù hợp. Vì vậy, bệnh nhân bỏng được hồi sức chỉ bằng một lượng dịch cần thiết để duy trì tưới máu cơ quan.

Tưới máu cơ quan có thể được đánh giá bằng nhịp tim, huyết áp, mức độ ý thức, đổ đầy trở lại mao mạch, và lưu lượng nước tiểu tối thiểu 50 ml/giờ ở người lớn hoặc 0,5 – 1 ml/giờ ở trẻ em.

Trẻ em có diện tích da toàn bộ cơ thể tương quan với cân nặng lớn hơn ở người lớn và vì vậy có nhu cầu dịch lớn hơn. Hồi sức dịch ở trẻ em thường được tính toán dựa vào diện tích da thay vì cân nặng. Công thức Galveston được sử dụng để tính toán trong hồi sức dịch ở trẻ em bỏng (Ringerlactate với thể tích 5000 ml/diện tích bỏng + 2000 ml/diện tích da toàn bộ cơ thể, ½ thể tích được truyền trong 8 giờ đầu tiên). Diện tích da toàn bộ cơ thể có thể được ước tính theo công thức Mosteller: ([chiều cao (cm) x cân nặng (kg)]/3600)1/2. Trẻ sơ sinh nên thêm glucose 5% vào dịch truyền vì chúng thường thiếu dự trữ carbohydrate.

6. ĐIỀU TRỊ ĐAU

Bỏng là một trong những tổn thương đau nhất, tuy nhiên nhiều bệnh nhân không được giảm đau khi vào khoa cấp cứu.

Điều trị đau không hợp lý có thể góp phần làm tăng đáp ứng viêm và gây căng thẳng (stress) quá mức, cảm giác đau trung tâm tăng, đau và rối loạn cảm giác mạn tính kéo dài, và rối loạn tâm lý sau chấn thương.

Sự giải phóng các protein thông tin thứ phát như protein kinase C, và các yếu tố dinh dưỡng thần kinh như yếu tố phát triển dây thần kinh có thể gián tiếp làm tăng cảm giác đau cấp tính do bỏng và khởi đầu cho sự xuất hiện tăng cảm giác đau mạn tính.

Giảm đau không phù hợp có thể do bỏ sót các vết thương bỏng hoặc các tổn thương phối hợp khác, hoặc lo ngại thuốc giảm đau có thể làm tổn hại thông khí. Điều trị đau phải là mối quan tâm chính cho tất cả các bệnh nhân bỏng.

Có ba giai đoạn phục hồi bỏng, mỗi giai đoạn có đặc điểm và kiểu đau khác nhau, và mỗi giai đoạn lại cần tới các công cụ đánh giá và chiến lược điều trị đặc thù. Ba giai đoạn này bao gồm giai đoạn cấp cứu hoặc hồi sức, giai đoạn lành, và giai đoạn phục hồi chức năng. Chúng ta chỉ tập trung vào điều trị đau trong giai đoạn cấp cứu hoặc hồi sức

Trong giai đoạn cấp cứu hoặc hồi sức, bệnh nhân có thể phải chịu đựng ba loại đau chính.

  • Đau nền (background pain) được cho là đau cơ bản do trực tiếp tổn thương bỏng gây lên. Mức độ đau nền thay đổi lớn và còn tùy thuộc vào mức độ lo lắng của bệnh nhân. Đau này thường được mô tả như cảm giác bỏng hoặc nhói liên tục và nó vẫn còn ngay cả khi bệnh nhân bất động. Đau nền về cơ bản có thể làm dịu đơn giản bằng cách phủ lên tổn thương bỏng một lớp băng lạnh ẩm.
  • Đau thấu (breakthrough pain) xuất hiện khi có sự tăng đột ngột cường độ đau, thông thường nồng độ thuốc giảm đau giảm theo thời gian. Thu hẹp khoảng cách liều giảm đau có thể giải quyết được loại đau này.
  • Đau do thủ thuật (procedural pain) ý nói tới đau do vết thương bỏng bị kéo hoặc cắt lọc. Đau này thường rất nặng nhưng ngắn. Bổ xung thuốc an thần với các thuốc giảm đau opioid đường tiêm rất hữu ích trong giai đoạn điều trị này.

6.1 Các biện pháp giảm đau không dùng thuốc

Làm lạnh tổn thương bỏng bằng nước lạnh có thể làm giảm đau đáng kể. Nhiệt độ làm lạnh tối ưu trong khoảng 10 – 250C, nó xấp xỉ nhiệt độ của nước máy. Làm lạnh bằng đá hoặc nước đá sẽ làm tăng mức độ nặng của tổn thương và cần phải tránh. Làm lạnh có hiệu quả nhất khi bệnh nhân tới viện ngay sau tổn thương. Tuy nhiên, làm lạnh vẫn có hiệu quả trước 30 phút sau tổn thương.

Tổn thương bỏng có thể được làm lạnh bằng cách:

  • Để vết thương dưới vòi nước máy đang chẩy hoặc đắp lớp băng ẩm lên tổn thương.
  • Chăn lạnh có thể cũng rất hữu ích, đặc biệt trong hoàn cảnh bệnh nhân trước khi vào viện.

Phủ lên tổn thương bỏng một lớp băng giữ ẩm cũng làm giảm đau. Hiệu quả giảm đau có thể được giải thích do giảm kích thích các dây thần kinh bên dưới bởi các dòng khí hoặc các kích thích trực tiếp khác.

6.2 Các biện pháp điều trị giảm đau bằng thuốc

Morphin sulfate và acetaminophen là những thuốc giảm đau được sử dụng phổ biến nhất ở bệnh nhân bỏng

Đau nhẹ do bỏng có thể được điều trị bằng acetaminophen đường uống (1g ở người lớn hoặc 15mg/kg ở trẻ em) mỗi 4 – 6 giờ hoặc thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) như ibuprofen (400 – 800 mg ở người lớn hoặc 15mg/kg ở trẻ em) mỗi 6 – 8 giờ. Đau do bỏng nhẹ có thể còn được điều trị bằng thuốc kháng viêm không steroid tại chỗ.

Đau do bỏng trung bình tới nặng được điều trị bằng opioid đường tiêm (morphin sulfate 0,05 – 0,1 mg/kg) rất có hiệu quả. Đường tĩnh mạch được khuyến cáo vì có tác dụng nhanh và hiệu quả, và sự hấp thu chắc chắn

Vì thời gian bán thải ngắn, fentanyl 0,5 – 1 µg/kg có thể được sử dụng điều trị cho đau thấu và đau do thủ thuật. Xịt fentanyl đường mũi (intra-nasal fentanyl) với liều 1,4 µg/kg có thể có tác dụng tương đương với morphin đường uống ở cả trẻ em và người lớn.

Truyền lidocain tĩnh mạch, tiêm tĩnh mạch (bolus) 1mg/kg sau đó truyền tĩnh mạch liên tục 2 – 4 mg/phút, có thể làm giảm mức độ nặng của đau ở bệnh nhân bỏng.

Các thuốc an thần, đặc biệt là benzodiazepine, là sự bổ sung hữu ích cho điều trị đau ở bệnh nhân bỏng

  • Cần chú ý khi sử dụng kết hợp opioid và benzodiazepine với nhau vì chúng có thể tác dụng hiệp lực gây giảm thông khí và hạ huyết áp
  • Lorazepam (1mg tiêm tĩnh mạch) và midazolam (1mg tiêm tĩnh mạch hoặc xịt đường mũi) đều được sử dụng rộng rãi ở bệnh nhân bỏng

Các thuốc khác bao gồm thuốc giảm đau và chống co giật (gabapentin và neurotin), thuốc kích thích, thuốc chẹn β, và thuốc chống trầm cảm, cũng rất hữu dụng trong điều trị đau mạn tính và đau do bỏng tai các đơn vị bỏng, tuy nhiên, không có bằng chứng ủng hộ sử dụng các thuốc này tại khoa cấp cứu.

7. CHĂM SÓC TẠI CHỖ VẾT THƯƠNG BỎNG

Chăm sóc tại chỗ vết thương bỏng không phải là ưu tiên hàng đầu trong xử trí cấp cứu bỏng, tuy nhiên, khi tình trạng bệnh nhân đã ổn định thì việc chăm sóc tại chỗ lại rất cần thiết

Tất cả tổn thương bỏng đều có thể bị vấy bẩn và cần được làm sạch hoàn toàn bằng xà phòng và nước. Tổ chức dập nát hoặc hoại tử cần được loại bỏ nhẹ nhàng

Việc chăm sóc vết thương bỏng thường cần tới thuốc giảm đau đường uống hoặc tĩnh mạch

Dự phòng uốn ván bằng huyết thanh trung hòa độc tố uốn ván (tetanus immune globulin) nếu cần thiết

7.1 Làm lạnh tổn thương bỏng

Lợi ích của việc làm lạnh bề mặt tổn thương bỏng đã được công nhận từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, vẫn còn có sự tranh cãi về yếu tố làm lạnh tốt nhất, thời điểm, khoảng thời gian, và nhiệt độ làm lạnh tối ưu.

Các nghiên cứu kinh điển đã cho rằng nhiệt độ làm lạnh tối ưu vào khoảng 10 – 250C, và khi làm lạnh các bỏng lớn bằng nước đá (1 – 80C) có thể gây hạ thân nhiệt và tỷ lệ tử vong tăng. Đồng thời, Venter và cộng sự cũng cho rằng làm lạnh bằng nước đá sẽ gây hoại tử tổ chức nhiều hơn là không làm lạnh ở tất cả các trường hợp bỏng, và ông cũng nhận thấy khi nước máy (12 – 180C) được dùng làm lạnh thì tổn thương bỏng ít bị hoại tử và liền nhanh hơn.

Hiệu quả có lợi của làm lạnh vẫn còn khi việc điều trị bắt đầu khoảng 30 phút sau tổn thương

Làm lạnh bằng nước máy có hiệu quả giảm đau, có thể làm giảm sự tiến triển của hoại tử mô, và hạn chế được nguy cơ cấy ghép da

Nếu bệnh nhân cảm thấy thoải mái với việc làm lạnh thì vẫn nên tiếp tục cho tới khi đau giảm.

Chống chỉ định làm lạnh bằng đá và nước đá vì nó có thể gây tổn thương tổ chức

7.2 Điều trị phỏng rộp do bỏng

Điều trị phỏng rộp là một chủ đề còn nhiều tranh cãi. Một số quan điểm cho rằng dịch nằm dưới tổ chức da hoại tử có thể bị nhiễm trùng kín trong khi một số quan điểm khác cho rằng các phỏng rộp còn nguyên có thể tạo ra môi trường vết thương ẩm có lợi cho việc lành vết thương.

Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy cả tác dụng tích cực và tiêu cực của dịch phỏng rộp bỏng, tuy nhiên, các nghiên cứu lâm sàng lại cho thấy các phỏng rộp còn nguyên lành nhanh hơn và gần như không bị nhiễm trùng.

Một nghiên cứu bỏng độ 2 sâu ở lợn đánh giá hiệu quả của việc cắt lọc đã chứng minh tổn thương bỏng lành nhanh hơn, ít nhiễm trùng hơn, và ít để lại sẹo hơn khi bỏng được cắt lọc.

Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên cứu lớn nào để khẳng định điều này. Do đó, có sự thống nhất chung là với phỏng rộp đã vỡ, các biểu mổ hoại tử cần được lấy bỏ nhẹ nhàng trong khi vẫn để lại các biểu mô lành còn dính chặt.

7.3 Băng tổn thương bỏng

Mục đích băng tổn thương bỏng là bảo vệ vết thương, giảm đau, hấp phụ dịch tiết từ vết thương, và cuối cùng là giữ nhiệt.

Việc sử dụng kháng sinh toàn thân không được ủng hộ. Chăm sóc tại chỗ tổn thương bỏng độ 1 không cần thiết, ngoại trừ trường hợp thuốc tê tại chỗ và/hoặc các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid (NSAIDs) tại chỗ có thể dùng được.

Có hai biện pháp điều trị bỏng độ 2: (1) biện pháp mở là dùng thuốc kháng khuẩn tại chỗ; và (2) biện pháp kín là sử dụng băng giữ ẩm tổng hợp. Biện pháp mở là phù hợp nhất cho bỏng lớn nhiễm bẩn có lượng chất tiết lớn.

Thuốc kháng khuẩn tại chỗ được sử dụng cho tới khi tổn thương bỏng tái phủ biểu mô hoàn toàn để dự phòng bội nhiễm vết thương. Tổn thương bỏng được tái phủ biểu mô khi có một lớp bao phủ mầu trắng trong và khô. Thuốc kháng khuẩn được sử dụng để băng tổn thương bỏng bao gồm bacitracin, neomycin, mupirocin, silver sulfadiazine, và mafenide.

Sau khi thuốc kháng khuẩn được sử dụng, một lớp băng không dính có thể được sử dụng để bao phủ vết thương.

Với phương pháp này lớp băng cần được tháo bỏ hàng ngày và tổn thương bỏng được làm sạch bằng nước và xà phòng sau đó phủ lại một lớp thuốc sát khuẩn tại chỗ và lớp băng không dính mới lên tổn thương.

      Theo kinh điển, silver sulfadiazine và mafenide là những thuốc kháng khuẩn chủ chốt trong điều trị. Tuy nhiên, đôi khi có những phản ứng bất lợi. Silver sulfadiazine có thể gây phản ứng dị ứng với sulfa, và đôi khi gây ức chế tủy xương. Theo kinh nghiệm, silver sulfadiazine đã cho thấy những ảnh hưởng bất lợi tới các tế bào biểu mô (keratinocytes và fibroblasts), và trong bỏng lớn, mafenide acetate có thể gây toan chuyển hóa.

Biện pháp kín điều trị bỏng độ 2 là sử dụng băng giữ ẩm phủ lên bề mặt vết thương. Băng giữ ẩm phù hợp nhất cho tổn thương bỏng độ 2 bề mặt có ít chất tiết

      Băng giữ ẩm tạo ra một môi trường làm lành vết thương ẩm là sự lựa chọn tối ưu cho việc lành vết thương. Môi trường ẩm làm tăng sự tái phủ biểu mô và tái sinh mạch máu, và làm giảm đau.

Băng giữ ẩm không cần thiết phải thay đổi hàng ngày.

      Có sáu loại vật liệu chính được sử dụng làm băng giữ ẩm: các sợi polyurethane, hydrocolloids, alginates, băng thấm bạc, hydrogels, và composites. Sự phát triển các sản phẩm băng giữ ẩm chứa đựng nanocrystalline silver đã thu hút được nhiều mối quan tâm vì bạc (silver) có tính chất kháng khuẩn chống lại cả vi khuẩn gram âm và vi khuẩn gram dương cũng như nấm (Candida). Nanocrystalline silver mất tác dụng chậm hơn dạng ion của bạc và vì vậy không cần thay băng hàng ngày.

      Phần lớn bệnh nhân bỏng nhẹ có thể được điều trị và ra viện tại khoa cấp cứu. Nếu bỏng giới hạn trong một kích cỡ và có một phỏng rộp, bệnh nhân cần được khám lại trong vòng 48 giờ. Tuy nhiên, nếu bỏng rộng, hoặc liên quan tới mặt hoặc tay, hoặc xuất hiện bỏng khô và sâu thì bệnh nhân nên tới bác sỹ ngoại khoa có kinh nghiệm điều trị bỏng hoặc tới trung tâm bỏng ngay trong ngày.

Bệnh nhân có bỏng độ 3 nên được chuyển tới trung tâm bỏng, tốt nhất là phủ đơn giản lên vết thương bỏng một lớp băng dạng mỡ để vận chuyển. Silver sulfadiazine không nên sử dụng vì nó sẽ làm thay đổi sự biểu hiện của tổn thương bỏng trước khi được đánh giá bởi chuyên gia bỏng

7.4 Cắt bỏ vẩy bỏng

Giải phóng sự chèn ép của vẩy bỏng bằng dao mổ hoặc dao điện tại giường được gọi là thủ thuật cắt bỏ vẩy bỏng. Mặc dù nó ít được thực hiện tại khoa cấp cứu nhưng nó lại là thủ thuật tối quan trọng đối với bệnh nhân bỏng khi có tổn thương vẩy bỏng cứng kiểu chu vi ở cổ, ngực, hoặc các chi.

Da chết trở lên khô và cứng, và hình thành vẩy biểu hiện như là một lớp bao phủ cứng bề mặt tổn thương

Với những bệnh nhân có vẩy bỏng lớn thì cần được theo dõi cẩn thận, đặc biệt đối với vẩy bỏng kiểu chu vi hoặc vẩy bỏng rộng ở ngực hoặc cổ, vì chúng có nguy cơ gây:

  • Phù dưới vẩy dẫn tới sự chèn ép và cản trở máu động mạch
  • Cản trở hô hấp do tăng áp lực thành ngực, chèn ép gây cản trở đường thở (khí quản)
  • Giảm tưới máu, đặc biệt các đầu chi, với biểu hiện đau, mất cảm giác, và đổ đầy trở lại mao mạch chậm

Trước đây, thủ thuật cắt bỏ vẩy bỏng chỉ được thực hiện khi các tín hiệu Doppler động mạch giảm. Hiện nay, tủ thuật cắt bỏ vẩy bỏng chỉ cần dựa vào SpO2 < 90% ở đầu chi (có hoặc không có Doppler mạch), hoặc áp lực đỉnh (Ppeak) đường thở cao hoặc khó thực hiện thông khí nhân tạo ở bệnh nhân bỏng đang thở máy.

Nguồn

Ths-BS Lương Quốc Vinh- Khoa cấp cứu, Bệnh viện Bạch Mai.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Adam J. Singer, “Thermal burns”, Rosen’s Emergency Medicine: Concepts and Clinical Practice, 7th Edition, Copyright 2009 Marx Hockberger Walls, pp
  2. Maria Dowell, “Burns”, Critical care: just the facts, 1st Edition, Coppyright 2007 Mcgraw-Hill companies, pp 344-346
  3. Phillip L. Rice, “Emergency Care of Moderate and Severe Thermal Burns in Adults”, Uptodate.com, Version 17.3: September 2009
  4. Robert H. Demling, “Burns: Resuscitation Phase (0 – 36 hours)”, Principles of critical care, 3rd Edition, Coppyright @ 2005 Mcgraw-Hill companies, pp 1457-1465
  5. Steven E. Wolf, “Burn Management”, Irwin and Rippe’s intensive care medicine, 6th Edition, Coppyright @ 2008 Lippincott Williams and Wilkins, pp 1931-1937

 

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *