Loét tỳ đè khả năng rất dễ xuất hiện nếu nhưng chúng ta không biết cách chăm sóc bệnh nhân. Trên thực tế, quá trình điều trị tình trạng loét tỳ đè hiện nay không phải là một việc làm dễ dàng bởi đa số những nguyên gây ra bệnh đều do sự ảnh hưởng từ một số cơ quan trong khác cơ thể bệnh nhân.
Thế nào là loét tỳ đè?
Loét tỳ đè được các bác sĩ xác định đó là do các biến đổi ở phần da và mô dưới da do sự tỳ đè lên các vùng lồi xương gây nên. Nếu như không được chú ý thì chính các các lực này sẽ gây nên loét. Vì vậy, phương pháp điều trị hiệu quả, tốt nhất cho các trường hợp loét do tỳ đè chính là phòng bệnh, song có những trường hợp ở trong điều kiện tối ưu nhất cũng có thể không phòng ngừa được.
Người cao tuổi có tỷ lệ cao nhất trong loét tỳ đè , bởi do nằm viện dài ngày, các bệnh nhân sẽ bị tổn thương phần cột sống/ bệnh lý về tim mạch có nguy cơ loét tỳ đè cao hơn so với bệnh nhân thông thường. Một số các yếu tố góp phần hình thành nên các vết loét do tỳ đè bao gồm: sự thiếu hụt dinh dưỡng, trọng lượng tăng hoặc giảm, mất thể tích, thiếu máu, tiểu/ đại tiện mất tự chủ, đái tháo đường, suy thận, mắc bệnh ác tính, bệnh nhân sử dụng thuốc an thần kéo dài, trải qua các cuộc phẫu thuật lớn, các rối loạn chuyển hóa, hút thuốc và nằm liệt giường / ngồi trên xe lăn lâu ngày. Tiếp đó là bản thân da của người lớn tuổi sẽ giảm tính đàn hồi và độ dày, vì thế khi bị tỳ đè sẽ gia tăng nguy cơ tổn thương.
Cơ chế gây nên các tổn thương: các lực trượt, do áp lực, ma sát và độ ẩm.Phải đến hơn 90% loét tỳ đè xuất hiện ở các vùng lồi xương của cơ thể phần dưới. Áp lực và thời gian lâu sẽ làm phá hủy các mô phụ thuộc vào các yếu tố nguy cơ đang có sẵn.
- Yếu tố thứ hai chính là các lực trượt, hình thành bởi sự trượt của những bề mặt cận kề, chính sự trượt này sẽ gây ra lực ép lên các dòng mao mạch của lớp dưới da. Ví dụ dễ hình dung như khi chúng ta nâng phần thân trên của bệnh nhân lên thì chính áp lực trượt sẽ tác động đến phần xương cùng cụt tới người bệnh. Khi đó ma sát là lực được tạo ra bởi hai bề mặt chuyển dịch qua nhau như: bệnh nhân trượt trên giường, lực ma sát sẽ gây tổn thương phần biểu bì.
- Sau cùng chính là độ ẩm sẽ làm tăng nguy cơ loét do tỳ đè, có sự liên quan mật thiết với việc bệnh nhân không thể tự chủ trong việc tiểu/ đại tiện gây nên loét. KHi da ẩm ướt sẽ gia tăng nguy cơ nhiễm trùng da, nên khi có loét do tỳ đè ở vùng xương cùng phải vệ sinh thường xuyên và nếu có thể hãy chỉ định đặt thông tiểu lâu dài khi người bệnh không tự chủ được.
Các mức độ loét tỳ đè
Để cho quá trình chăm sóc bệnh nhân diễn ra thuận lơi nhất việc đánh giá các mức độ loét do tỳ đè rất cần thiết bởi đây sẽ là định mức để phân loại loét theo mức độ nặng -nhẹ theo mức độ sâu của các tổn thương.
- Loét tỳ đè độ 1: đã có dấu hiệu viêm cấp ở tất cả các lớp của da, biểu hiện nhuận biết là một khu vực da có màu hồng ban không có thể làm trắng lại được khi ấn vào, nền da còn nguyên vẹn.
- Loét tỳ đè độ 2: biểu hiện nhận thấy đó là sự phá vỡ biểu bì và phần chân bì, có màu hồng ban ở xung quanh/ đám cứng, thậm chí là cả hai. Đây chính là hậu quả của quá trình viêm lan rộng dẫn tới phản ứng của các nguyên bào sợi.
- Loét tỳ đè độ 3: việc loét da bị hoàn toàn nhưng không đồng đều mở rộng vào mô dưới da nhưng sẽ chưa qua lớp mạt ở phía dưới. Tại đây tổn thương sẽ bị chảy dịch, có mùi hôi, xuất hiện hoại tử.
- Loét tỳ đè độ 4: các vết loét đã thâm nhập sâu vào lớp mạc , gây phá hủy hàng rào chắn cuối cùng để tiến hành lan rộng. Về cơ bản, sẽ giống với loét tỳ đè độ 3 tuy nhiên phần xương- khớp- cơ có thể đã bị ảnh hưởng.
Những biến chứng của loét tỳ đè sẽ có liên quan đến tỷ lệ mắc và tử vong cao đáng kể. Đa phần các biến chứng sẽ xuất hiện với loét độ 3 và 4 đi cùng các biến chứng này bao gồm như: viêm xương khớp, viêm mô tế bào, nhiễm trùng khớp, uốn ván, viêm khớp xương mủ cấp . Khi bệnh nhận bị uốn ván sẽ làm phức tạp thêm các loét tỳ đè bởi thế nên dự phòng miễn dịch uốn ván bằng việc sử dụng kháng huyết thanh và tiêm ngừa vắc – xin uốn ván kịp thời.
Làm thế nào để phòng ngừa loét tỳ đè
- Bệnh nhân có nguy cơ bị loét tỳ đè cần phải được đánh giá thường xuyên và nên đặt trong môi trường thúc đẩy sự phát triển của những lớp mô mềm. Việc sử dụng các kỹ thuật tư thế thích hợp và các bề mặt hỗ trợ thì sự phát triển này có thể đạt được. Thường xuyên khám da người bệnh để phát hiện sớm nhất các khu vực đỏ là dấu hiệu nhận biết các biến đổi áp lực sớm.
- Khi thay đổi lại tư thế nằm/ ngồi cần phải nâng người bệnh chứ không được kéo lê lên khỏi giường / xe lăn để tránh tạo nên những ma sát gây ra tổn thương tới lớp biểu bì. Tuyệt đối không nên nâng thân trên người bệnh lên cao > 30 độ để hạn chế các lực trượt ình thành.
- Một số các loại đệm/ giường/ các dụng cụ cơ học đặc biệt có sẵn sẽ có tác dụng ngăn ngừa loét tỳ đè bởi sự thay đổi áp lực trên các xương lồi. Những dụng cụ như: đệm gel- đệm bọt- đệm ghế- đệm da cừu có tác dụng phòng ngừa loét ty đè ở những vị trí giải phẫu đặc biệt.sẽ không có bất kỳ một dụng cụ đơn lẻ nào mang tới hiệu quả trong phòng ngừa tất cả các vết loét tỳ đè.
- Cần đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng cho bệnh nhận, sự thiếu hụt hay không đủ các chất dinh dưỡng cũng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc lành bệnh cho bệnh nhân. Bốn nhóm chất cần dung nạp đầy đủ và hợp lý, tránh thiếu hay quá thừa để tăng cường sức đề kháng và thức đẩy vết thương nhanh lành.