Nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi là rất lớn, đặc biệt với những bệnh nhân bị tai biến, đã qua phẫu thuật hay nằm liệt lâu ngày… Vậy người thân nên chăm sóc vết loét tỳ đè thế nào để không gây đau đớn cho bệnh nhân và giúp kiểm soát vết loét ?
Nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi- Nguyên nhân
Nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi thường gặp phải với người phải nằm liệt/ khó vận động. Điển hình nhất như các bệnh nhân sau phẫu thuật, chấn thương phải bó bột, bị tai biến, không minh mẫn, tuổi già sức yếu… Vì tình trạng sức đề kháng kém nên nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi cao hơn so với những độ tuổi khác , sức yếu khó cử động. Cùng với đó tình trạng bệnh nặng khiến gặp khó khăn nhiều trong sinh hoạt, vận động. Khi cơ thể người già nằm lâu tại một tư thế khiến cho sức nặng cơ thể trong thời gian dài đè lên một vùng da. Lúc này sức nặng cơ thể sẽ chèn ép lên phần mạch máu dưới da, dinh dưỡng và oxy không được lưu chuyển tới cho các tế bào vùng bị tỳ đè. Hậu quả sẽ khiến cho các tế bào tại vùng bị tỳ đè mất đi sự sống, gây nên các vết loét.
Với các trường hợp này cần được phát hiện sớm và có những biện pháp chăm sóc vết loét tỳ đè đúng cách, nếu chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng bị bội nhiễm vi khuẩn. Đây là nguyên nhân chính khiến cho vết loét bị lan rộng và hình thành nên các ổ loét., vết loét có thể lan rộng. Nghiêm trọng hơn sẽ dẫn đến hoại tử, điều trị lâu dài và rất khó phục hồi.
Nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi- Vị trí thường gặp
Thực tế cho thấy nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi rất lớn, đi kèm với đó là vị trí loét cũng nhiều hơn so với bệnh nhân khác. Những vị trí bị loét phụ thuộc nhiều vào vị trí thường bị tỳ đè hoặc tư thế nằm/ ngồi của bệnh nhân. Tóm lại những vị trí thường dễ bị loét nhất là vị trí xương cùng cụt- bả vai- gót chân- hai mạng sườn…
- Người bệnh có tư thế nằm ngửa thường sẽ bị loét ở vùng xương chẩm ( vùng da sau gáy), vùng xương cùng cụt, vùng da xương bả vai, vùng khủy tay hay gót chân cũng là những vị trí dễ bị loét ở trường hợp này.
- Người bệnh có tư thế nằm nghiêng thường sẽ bị xuất hiện vết loét ở phía bên ngoài lồng ngực, phía trong và ngoài đầu gối, vùng da mắt cá chân.
- Người bệnh có tư thế ngồi như bệnh nhân bị suy hô hấp lại thường có vết loét ở vùng da xung quanh của xương chậu.
Nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi- Phòng ngừa
Chính bởi vì nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi là thuộc top cao nhất, nên cần phải có những biện pháp phòng ngừa từ sớm để giảm thiểu nguy cơ cho người bệnh
- Giảm áp lực cho vùng da bị tỳ đè
Người nhà/ người chăm sóc nên cho người cao tuổi bị liệt nằm trên những chiếc đệm mềm, không được nằm trên giường cứng. Hàng ngày thường xuyên cho người bệnh lật/ xoay người thường xuyên, khoảng 1-2 giờ/ lần hoặc càng nhiều càng tốt. Với tư thế nằm, hãy nên kê cho người bệnh thêm các gối mềm ở vị trí thích hợp để tránh tỳ đè. Bệnh nhân nằm ngửa nên kê thêm gối ở phần thắt lưng- gót- khoeo… Khi nằm nghiêng có thể kê thêm gối ở phần thắt lưng-đầu gối- gót chân…
- Tăng cường sự lưu thông máu
Giảm thiểu nguy cơ loét tỳ đè ở người cao tuổi bằng cách thường xuyên xoa bóp, mát xa cho người bệnh. Khi xoa bóp cần chú ý thực hiện nhẹ nhàng, chậm rãi để không làm thêm tổn thương da. Việc làm này sẽ giúp tăng cường quá trình lưu thông máu và cho khu vực tổn thương có đầy đủ dinh dưỡng.
- Vệ sinh sạch sẽ cho bệnh nhân, chú ý tại các vết loét
Ở tại các vị trí vết loét, cần phải vệ sinh thường xuyên với dung dịch sát khuẩn phù hợp để loại bỏ đi các “ổ nhiễm khuẩn”. Đây là một bước làm quan trọng quyết định đến hiệu quả chăm sóc vết loét do tỳ đè ở người cao tuổi. Chú ý việc vệ sinh cơ thể, luôn giữ cơ thể được khô thoáng, thường xuyên lau khô mồ hôi cho bệnh nhân, làm mát các vị trí tỳ đè. Nên lau rửa người, thay quần áo, thay bỉm thường xuyên từ 3-4/ lần, khi bệnh nhân đi đại tiện cần vệ sinh ngay. Cho người bệnh nằm ở nơi thông thoáng, khô ráo, tránh ẩm mốc để hạn chế nhiễm khuẩn gây nghiêm trọng thêm vết loét.
- Đảm bảo đủ dinh dưỡng cho người cao tuổi
Dinh dưỡng bổ sung đầy đủ sẽ giúp đẩy nhanh hơn quá trình làm lành vết thương. Dinh dưỡng đa dạng, đầy đủ cũng góp phần tăng cường sức đề kháng của cơ thể người bệnh. Bón nhóm chất dinh dưỡng như: đạm- vitamin- khoáng chất- tinh bột, nếu bệnh nhân không thể ăn bình thường thì có thể xay nhỏ, nấu mềm thức ăn cho người bệnh- đây được coi là một trong những chìa khóa để hồi phục lại sức khỏe cho người bệnh.