Loét do tỳ đè là tổn thương một vùng cục bộ trên da hoặc mô bên dưới da, thường sẽ là trên xương, đây là kết quả khi mà trọng lượng cơ thể đè lên vùng da nhất định hay có sự kết hợp với ma sát. Loét do tỳ đè có thể diễn biến trong khoảng từ 2 đến 6 giờ khi những dòng máu mao mạch bình thường bị gây cản trở, dẫn đến hoại tử các mô. Người có bệnh nền đi kèm hay bị bệnh nặng sẽ dễ bị loét tỳ đè hơn với những người không có tiền sử bệnh lý nền. Cùng với việc chăm sóc thì chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân loét tỳ đè cũng rất quan trọng, giúp tăng cường sức đề kháng.
Contents
Phân loại loét tỳ đè
- Giai đoạn thứ I: lớp da còn nguyên vẹn với vùng da khu trú có dấu hiệu mẩn đỏ, thường sẽ là nổi rõ trên phần cục xương. Với những bệnh nhân có vùng da tối màu có thể có hiện tượng da bị nhợt nhạt.
- Giai đoạn thứ II: đã mất một phần của độ dày ở lớp biểu bì, biểu hiện như là: một vết loét hở, nông với vết thương màu đỏ hồng, nhưng không bị bong tróc. Vết loét cũng có thể biểu hiện ở dưới dạng vết phồng rộp bên trong có chứa đầy huyết thanh hay các mụn nước vỡ.
- Giai đoạn thứ III: đã mất đi toàn bộ độ dày của mô. Lớp mỡ dưới da có thể nhìn thấy được nhưng phần xương, gân cơ thì không. Có thể sẽ xuất hiện tượng bong tróc nhưng cũng không thể che lấp đi được độ sâu của phần mô bị mất. Độ sâu của vết loét tỳ đè ở giai đoạn 3 sẽ thay đổi tùy thuộc vào vị trí giải phẫu. Vị trí: sống mũi, chẩm, tai vết loét ở giai đoạn 3 có thể nông. Ngược lại, ở các khu vực lượng mỡ nhiều có thể phát triển thành vết loét tỳ đè ở giai đoạn 3 rất sâu).
- Giai đoạn thứ IV: đã mất đi toàn bộ độ dày của phần mô với xương, gân, cơ bị lộ ra ngoài hay có thể sờ thấy được trực tiếp.
Đánh giá, chuẩn đoán dinh dưỡng cho bệnh nhân loét tỳ đè
Trong các cuộc khảo sát thì báo cáo cho thấy tỷ lệ cao loét tỳ đè ở bệnh nhân nhập viện là từ 3% đến 4% và với những người già > 70 tuổi là từ 20% đến 33%. Song song với tỷ lệ cao suy dinh dưỡng tương ứng là từ 30% đến 50% và từ 19% đến 59%).
Chế độ dinh dưỡng kém thường được xem như là một yếu tố nguy cơ cao cho tiến triển của vết loét tỳ đè, chính xác vai trò của tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng có ảnh hưởng vẫn còn gặp nhiều tranh cãi. Nguyên nhân phổ biến dẫn tới của hiện tượng loét tỳ đè bao gồm khả năng hạn chế vận động, bệnh mạch máu ngoại vi, rối loạn ý thức không kiểm soát… Tất cả đều sẽ gây nên tình trạng lưu thông máu kém và thiếu oxy cung cấp đến các mô.
Một số tình trạng khác sẽ khiến cho bệnh nhân có nguy cơ phát triển loét tỳ đè nhanh hơn bao gồm như là: bệnh đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, béo phì, nhiễm trùng huyết, bệnh thận, gan / tim mãn tính hoặc là giai đoạn cuối của các bệnh liên quan đến ức chế hệ miễn dịch như: tổn thương tủy sống, gãy xương hông. Một số những loại thuốc có thể góp phần vào hình thành nên nguy cơ phát triển của vết loét do tỳ đè bao gồm: thuốc chống vận động (ví dụ: thuốc ngủ, thuốc chống trầm cảm), thuốc ức chế hệ miễn dịch, steroid, hóa trị- xạ trị và thận lọc máu.
Việc suy dinh dưỡng, giảm cân không chủ ý, nhiều hơn 5% trong 1 tháng, 7,5% trong 3 tháng hay là 10% trong 6 tháng, cho dù thứ phát từ nguyên nhân kém ăn / một quá trình bệnh khác, tổn thương mô và vết thương kém lành đều có nguy cơ.
Chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân loét tỳ đè
Đa số những bệnh nhân bị loét tỳ đè nên được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, bao gồm cả năng lượng,protein, vitamin – khoáng chất và chất lỏng. Người nhà/ người chăm sóc nên xem xét lượng dịch tiết ra từ vết thương để điều chỉnh chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân loét tỳ đè hợp lý.
Khuyến cáo chung cho những người bệnh bị loét tỳ đè là nên nạp từ 30 – 35 kcal/ kg/ ngày, hỗ trợ đầy đủ dinh dưỡng tại 30 kcal /kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày thực tế là một yếu tố sẽ thúc đẩy nhanh cho việc chữa lành vết loét áp lực ở giai đoạn 3 và 4. Khuyến khích nên tăng mức năng lượng lên từ 35 đến 40 kcal/ kg/ mỗi ngày với những người nhẹ cân/ trước đó đã giảm cân không mong muốn.
Bổ sung đủ lượng protein là rất cần thiết với tất cả các giai đoạn để giúp chữa lại lành vết thương. Nếu như không được cung cấp năng lượng đầy đủ, thì protein sẽ được sử dụng như là một nguồn năng lượng để thay thế. Lượng protein hàng ngày cần từ 1,25 đến 1,5g/ kg trọng lượng thực tế cơ thể từ những nguồn thực phẩm giàu protein giá trị cao.
Cần cung cấp lượng nước đầy đủ trên ngày sẽ giữ cho bệnh nhân đủ nước và giúp ngăn ngừa tình trạng mất nước. Lượng chất lỏng tối ưu cần khoảng từ 30 – 35 mL/ kg trọng lượng cơ thể thực tế hoặc tối thiểu là phải 1.500 mL/ ngày. Việc bổ sung chất lỏng qua những bữa ăn chính thường sẽ là không đầy đủ, bởi vậy cần phải tích cực hỗ trợ bổ sung thêm lượng chất lỏng cho bệnh nhân qua những bữa phụ. Cùng với đó, bệnh nhân khi ở trong phòng điều hòa có thể sẽ có nhiều nguy cơ bị mất nước hơn, cần được bổ sung chất lỏng nhiều hơn bình thường.
Dinh dưỡng cho bệnh nhân loét tỳ đè- một số chất bổ sung đặc biệt
- Vitamin: tất cả các loại vitamin đều cần thiết trong quá trình chữa lành vết thương: vitamin A, E, C và K ,đặc biệt là vitamin C và A được chú ý nhiều nhất.
- Khoáng chất: trong cơ thể có các nguyên tố vi lượng như: kẽm, đồng, sắt, có mối quan hệ liên quan chặt chẽ để giúp chữa lành vết thương.
- Bổ sung dinh dưỡng qua đường ống thông: nếu như bệnh nhân chỉ tiêu thụ được dưới 50% nhu cầu năng lượng và protein ước tính hàng ngày, cần bổ sung dinh dưỡng qua đường uống / hỗ trợ dinh dưỡng qua đường tiêu hóa (ống thông).
Nếu người bệnh được cho ăn bằng ống thông, cần phải cung cấp tối thiểu năng lượng 100%, protein, vitamin, khoáng chất theo RDA (DRI) của bệnh nhân. Bởi vì hiệu quả của những công thức đường ruột chuyên biệt có thể không đạt được tối đa bằng việc nuôi dưỡng qua đường miệng.
- Axit amin: các axit amin arginine và glutamine đã cho thấy tác dụng trong việc tăng cường làm lành vết thương của người bệnh.