Loét tỳ đè là những vết loét hình thành trên các vùng của cơ thể với những bệnh nhân nằm lâu, ít vận động, bị liệt. Nếu như vết loét không được phát hiện và điều trị kịp thời, đúng cách sẽ có nguy cơ tử vong cao với bệnh nhận do bị hoại tử và nhiễm trùng.
Contents
Thế nào là loét tỳ đè ?
Loét tỳ đè chính là những tổn thương hình thành do hậu quả của việc đè ép liên tục khiến tổn thương các mô bị đè ép, sự đè ép quá lâu lên mô, hệ thống mạch bạch huyết, collagen mao mạch sẽ làm bít tắc dòng máu và các dịch kẽ, gây nên các hiện tượng như: thiếu máu, đau, hoại tử và tạo ra các mảng mục của mô bị chết.
Đây được xem là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến kéo dài thời gian nằm viện, làm gia tăng thêm chi phí điều trị cùng như thời gian chăm sóc của người nhà.
Vị trí thường xảy ra loét tỳ đè
Những vị trí loét tỳ đè thường hay gặp phải đó là: vùng xuơng cùng, khuỷu, gót chân, bả vai, tai, mặt ngoài đùi, sau gáy, mắt cá chân,… phải đến 80% các vết loét xảy ra ở xương cùng hay ở gót chân.
Vết loét bắt đầu hình thành khi có áp lực đủ lớn tỳ đè vào vùng da, đặc biệt là ở những vùng da sát xương, áp lực này thường sẽ lớn hơn nhiều so với áp lực mao mạch bình thường ( vào khoảng 32mmHg) gây nên những rối loạn chuyển hóa và hoại tử các tế bào.
Quá trình này có thể tự bù trừ ở thời điểm ban đầu bằng việc giãn mạch chủ động để tăng cường tưới máu tại chỗ. Nếu như lực tỳ đè lên đến > 70mmHg, thì những tổn thương tổ chức sẽ không thể hồi phục lại được.
Biến chứng loét sẽ xuất hiện sớm, nặng lên khá nhanh, đường kính có thể là vài cm lên đến 20-25cm, sâu tới tận phần xương cùng. Đây là giai đoạn suy kiệt về cơ thể người bệnh, tâm lý bi quan, chán nản ở bệnh nhân, người thân.
Đối tượng bệnh nhân nào có thể bị loét tỳ đè ?
- Bệnh nhân liệt hai chi dưới do viêm nhiễm ở tủy, vì tủy bị chèn ép, gãy cột sống cổ, u tủy, lưng gây liệt tủy…
- Bệnh nhân bị suy kiệt do nằm lâu vì tai biến mạch não hay gãy cổ xương/ đùi…
Nguyên nhân gây ra loét tỳ đè
Nguyên nhân chính mà gây ra loét tỳ đè là do bị tỳ đè. Ban đầu, hiện tượng giãn mạch sẽ xuất hiện ở vùng da xung quanh bị tổn thương. Hiện tượng này hoàn toàn có thể hồi phục được khi loại đi bỏ nguyên nhân gây chèn ép/ tỳ đè. Nếu như nguyên nhân tỳ đè mà không bị loại bỏ, các tổn thương tổ chức sẽ không thể hồi phục, dẫn tới các thương tổn tổ chức tại chỗ ngay phía dưới nơi vùng tỳ đè.
- Lực tỳ đè tại chỗ vì bệnh nhân nằm nhiều nhưng không được thay đổi tư thế thường xuyên gây nên tỳ đè kéo dài và có những áp lực cao hơn áp lực mao mạch là 32mm Hg dẫn đến hiện tượng thiếu máu tổ chức và chết các tế bào. Khi tổ chức phần mềm đã bị chèn ép một thời gian dài giữa hai phương diện đó là: xương sát da – bề ngoài tiếp xúc: giường, xe lăn, ghế… thì loét tỳ đè sẽ xảy ra sớm.
- Da bị ẩm kéo dài: bệnh nhận bị bệnh nặng, khó săn sóc, không có người chăm sóc. Bẩn, không vệ sinh kịp thời để nước tiểu, phân lâu trên da.
- Rối loạn tại chỗ, viêm nhiễm
- Rối loạn hệ thần kinh giao cảm, mất trương lực mạch máu, mất chi phối thần kinh.
- Dinh dưỡng không đủ, đẩy nhanh quá trình loét ở người già, suy kiệt cơ thể, thiếu hụt lượng vitamin cần thiết.
- Một số những yếu tố khác góp để phần hình thành tình trạng thiếu máu tổ chức như là: tiếp xúc nhiều, lâu với môi trường ẩm ướt, bệnh nhân mất khả năng vận động, tổn thương tổ chức che phủ.
Những cách phòng ngừa loét tỳ đè
Hiện nay có rất nhiều phương pháp để phòng ngừa và điều trị loét tỳ đè, tùy vào thực trạng của bệnh nhân có thể áp dụng riêng lẻ hoặc kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để gia tăng hiệu quả điều trị bệnh.
- Nâng đỡ thể trạng
Bằng biện pháp: giảm đau, chăm sóc kịp thời với bệnh nhân mà tiểu/ đại tiện không tự chủ, vệ sinh ổ loét và các mô xung quanh hàng ngày đúng cách. Cùng với đó, cần đảm bảo dinh dưỡng đầy đủ cho bệnh nhân: calories, protein, vitamin, yếu tố vi lượng.
- Giảm áp lực tỳ đè
Để bệnh nhân nằm đầu cao 30 độ, thường xuyên thay đổi, xoay trở tư thế nằm/ ngồi 30 phút hoặc 1 giờ/ lần, có thể cho bệnh nhân tập vận động nếu được. Có thể sử dụng thêm giường xoay, đệm nước, đệm hơi, ghế đẩy trợ đặc biệt để giúp giảm đi áp lực tỳ đè, duy trì ở dưới mức 32 mmHg.
Thường xuyên giữ cho vùng da có nguy cơ tỳ đè được khô ráo (vệ sinh, lau khô bằng khăn mềm, sạch những vùng thường bị ướt do dính phải nước tiểu hay phân).
Khi thấy có những vùng nghi ngờ bị loét người nhà/ người chăm sóc cần báo ngay cho nhân viên y tế để kịp thời hỗ trợ.
- Chăm sóc vết loét
Loại bỏ đi các mô hoại tử: bằng việc cắt lọc, bơm xoáy nước, enzym tiêu hủy Protein hoặc Povidone-Iodine.
Sử dụng dung dịch rửa vết thương: nước muối sinh lý, Povidone-Iodine hòa loãng, acetic acid (0.5%) hoặc Sodium Hypochlorite (2,5%).
Băng bó vết loét: việc này thực hiện với vết loét giai đoạn 2 / nặng hơn, có thể sử dụng thêm thuốc gel để chống lại nhiễm bẩn, loại bỏ đi mô đang hoại tử.
Kháng sinh: có thể sử dụng thêm một số loại kem kháng sinh (theo chỉ định của bác sĩ).