Những vết loét do tỳ đè rất dễ xuất hiện nếu không biết cách chăm sóc bệnh nhân đúng cách. Thực tế, việc điều trị tình trạng loét do tỳ đè không phải là một việc làm dễ dàng bởi hầu hết các nguyên gây ra bệnh đều do ảnh hưởng từ một số cơ quan trong cơ thể, sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến người bệnh và người nhà nếu không biết các kiến thức cơ bản để vệ sinh các vết loét.
Contents
Loét do tỳ đè là gì?
Loét tỳ đè được xác định bởi các biến đổi ở da và mô dưới da do tỳ đè lên các lồi xương gây ra. Nếu không được chú ý các lực này sẽ gây loét. Theo đó, phương pháp điều trị tốt nhất các trường hợp loét do tỳ đè là phòng bệnh, song trong điều kiện tối ưu nhất cũng có trường hợp không phòng ngừa được.
Loét do tì đè gặp chủ yếu ở người nằm lâu bởi tai biến, tai nạn, sau các phẫu thuật lớn (nhất là phẫu thuật gãy xương đùi), ít hoặc lười vận động, đặc biệt là người tuổi cao. Bệnh gây nhiều phiền hà cho người bệnh, người nhà chăm sóc và gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe người bệnh.
Phân loại các vết loét do tỳ đè.
Đánh giá tốt nhất loét do tỳ đè là phân loại loét theo mức độ nặng của nó theo mức độ sâu của tổn thương.
- Loét tỳ đè độ 1: Đáp ứng viêm cấp ở tất cả các lớp của da, biểu hiện là một khu vực hồng ban không có thể làm trắng lại được xác định rõ trên nền da còn nguyên vẹn.
- Loét tỳ đè độ 2: Biểu hiện bằng phá vỡ biểu bì và chân bì, có hồng ban xung quanh, hoặc đám cứng, hoặc cả hai. Nó là hậu quả của đáp ứng viêm lan rộng dẫn đến phản ứng của các nguyên bào sợi.
- Loét tỳ đè độ 3I: Đáp ứng viêm được đặc trưng bởi loét da hoàn toàn không đồng đều mở rộng vào mô dưới da nhưng chưa qua lớp mạt phía dưới. Ở đây tổn thương có nền chảy dịch, mùi hôi, hoại tử.
- Loét tỳ đè độ 4: Thâm nhập vào lớp mạc sâu, phá hủy hàng rào chắn cuối cùng để lan rộng. Về mặt lâm sàng, nó giống loét tỳ đè độ III tuy nhiên xương, khớp, hoặc cơ có thể bị ảnh hưởng.
Nếu vùng da bị loét quá nặng do mất toàn bộ phần da, tổ chức dưới da, đáy vết thương được bao bởi lớp nhầy hoại tử màu vàng, nâu, hay xám hoặc lớp hoại tử khô màu đen và không xác định được chiều sâu của vết thương, sẽ khó xác định được độ.
Phòng bệnh loét do tỳ đè như thế nào?
Bởi vì tỷ lệ mắc và tử vong rất lớn, đồng thời có thể gây ra gánh nặng về kinh tế gây ra do phải điều trị vấn đề này, nên phòng ngừa là mục đích chính. Xác định người bệnh có nguy cơ là bước đầu tiên trong lựa chọn các biện pháp đề phòng.
Những người bệnh có nguy cơ nên phải được đánh giá thường xuyên và phải đặt trong môi trường thúc đẩy sự phát triển của mô mềm. Sự phát triển này có thể đạt được nhờ vào việc sử dụng các kỹ thuật tư thế thích hợp và các bề mặt hỗ trợ. Phải khám da người bệnh để phát hiện các khu vực đỏ là chỉ điểm các biến đổi áp lực sớm. Khi thay đổi lại tư thế phải nâng người bệnh mà không được kéo lê lên khỏi giường hoặc xe đẩy để tránh tạo ma sát gây tổn thương lớp biểu bì. Tránh nâng thân trên bệnh nhân lên cao lớn hơn 30 độ để hạn chế các lực trượt.
Các loại đệm, giường, và các dụng cụ cơ học đặc biệt đang có sẵn và có tác dụng ngăn ngừa loét tỳ đè do thay đổi áp lực trên các lồi xương. Các dụng cụ như đệm gel, đệm bọt, đệm ghế, và đệm da cừu có tác dụng phòng ngừa loét tì đè ở các vị trí giải phẫu đặc biệt. không có bất kỳ một dụng cụ đơn lẻ nào có hiệu quả trong phòng ngừa tất cả các loét tỳ đè.
Các đệm nổi tĩnh lực, thay đổi bằng các đệm khí áp, giường khí lỏng sẽ giúp ngăn ngừa và điều trị loét tỳ đè. Các giường này có khuynh hướng giảm áp lực nhờ việc sử dụng khí hoặc các chất nổi để duy trì sự phân bố trọng lượng người bệnh đồng đều. Tuy nhiên các phương tiện đó không thể nào thay thế được chăm sóc điều dưỡng cơ bản.
Xử lý vết loét do tỳ đè
Làm sạch vết thương và cắt bỏ mô hoại tử
Mục đích chính của điều trị loét tỳ đè là nhằm tạo ra môi trường thúc đẩy mô hạt lành lặn. Vết thương được rửa sạch không gây khó chịu bằng gạc tẩm nước muối sinh lý, tưới rửa vết thương và rửa bằng nước xoáy. Nên tránh dùng các chất sát khuẩn độc tế bào như peroxit hydro và povidon-iod.
Băng bó
Ngay khi vết thương sạch, nếu có mô hạt có thể nhìn thấy được, việc sử dụng băng làm thúc đẩy sự làm lành vết thương được khuyên dùng. Nguyên tắc thông thường là duy trì độ ẩm cho vết loét và làm khô da xung quanh. Các yếu tố thêm vào đối với việc lựa chọn dùng băng bao gồm cả mục đích kiểm soát sự tiết dịch, và các yêu cầu thời gian với người chăm sóc. Băng được lựa chọn bao gồm gạc có tẩm dung dịch muối và băng bít.
Xử lý các biến chứng
Hai biến chứng hay gặp nhất là nhiễm trùng và vết thương không lành. Với các vết thương sạch không lành được, phải đánh giá lại tình trạng toàn bộ của người bệnh và điều trị thử trong 2 tuần bằng một loại kháng sinh phổ rộng tại chỗ. Ở những bệnh nhân cần phẫu thuật, có thể phải xem xét việc phẫu thuật để điều trị vết thương không lành. Dùng các thuốc kháng sinh toàn thân thích hợp khi bị các biến chứng như nhiễm khuẩn huyết, nhiễm trùng mô mềm, hoặc viêm xương tủy.